THỂ SINH LỰC 4

Thể Sinh Lực (tt)

 

Xem Thể Sinh Lực, Bài Trước    

Theo cuộc tiến hóa, con người sẽ dần thay bốn loại ether địa cầu trong thể sinh lực của mình bằng bốn loại ether vũ trụ - cosmic ether, khi sự thay thế hoàn thành trọn vẹn, con người thành bậc Chân Sư. Như vậy, các Chân Sư có thể sinh lực làm bằng bốn loại ether vũ trụ. Khi ta bắt đầu diễn trình thay thế bằng cách lập hạnh và giúp đời, năng lực cõi cao tuôn vào gây ra tranh chấp, vì thể sinh lực của phàm ngã đẩy ra loại ether cao hơn, sinh ra căng thẳng, khó khăn cho ta. Song song với tranh chấp này còn có việc phàm ngã chống lại Chân ngã; ta không ý thức sự thay thế ether nhưng nó rất thật, và ảnh hưởng chính yếu đến sức khỏe của thể xác trong năm chặng dẫn tới năm lần chứng đạo (initiation, còn dịch là điểm đạo).
Nói thêm thì trong các nghi lễ chứng đạo, sách ghi là đức Chúa (đức Di Lặc) hay Đấng cao hơn nữa, dùng cây gậy thiêng. Công việc của cây gậy này là làm ổn định các loại ether cao trong người của ứng viên, bằng cách áp dụng năng lực cho phép người đạo đồ giữ lại được trong thể của mình ether loại cao.

D. Vai Trò

Thể sinh lực phải được xem xét theo ba góc cạnh:
● Như là cơ chế làm nó hiển lộ qua các đường kinh, hay hệ thống thanh bai gồm những đường lực có liên hệ với nhau mà tới phiên chúng hiển lộ qua hệ thần kinh của xác thân vật chất.
● Như là vật truyền đi nhiều loại năng lực khác nhau, đến từ nhiều nguồn khác biệt; các năng lực này chạy dọc theo, hay chạy bên trong những ống nằm bên dưới các đường kinh. Điều cần nhớ là ta đang nói về chuyện cùng mô tả điều mà ta không thấy, đây là những hiểu biết mới rất cần một loạt từ ngữ mới để diễn giải huyền bí học mới trong tân kỷ nguyên. Hiện thời điều này chưa có nên ngôn ngữ dùng không diễn tả đủ ý mà còn có thể gây hiểu lầm.
Điểm cần nhớ khác là trọn thể sinh lực không ngừng chuyển động và liên tục biến hóa; năng lực tạo nên thể luôn ở trong trạng thái thay đổi và luân chuyển luôn.
● Các năng lực này - tùy theo nguồn, tính chất và mục đích của nó - tạo ra bẩy huyệt lớn chi phối nhiều huyệt phụ nhỏ hơn, và sau cùng biểu lộ chúng qua bẩy tuyến lớn của hệ nội tiết.
Huyệt trên thực tế là giao điểm của các đường lực, nói ví von thì nó tựa như ngã năm, ngã bẩy của đường giao thông trong thành phố. Nhìn ở cõi cao, mỗi chúng ta tượng trưng mình bằng một hình tam giác lực mà ở giữa là một điểm, hình ảnh đó là ý nghĩa của câu chú Tây Tạng:
Om Mani Padme Hum
thường được dịch là ‘Ngọc sáng (là tâm điểm chói sáng của tam giác) trong hoa sen (gồm những cánh hoa là các đường lực).

E. Các Huyệt

Nay ta xem xét các huyệt như là những yếu tố chi phối đời sống phàm ngã trong ba cõi, và sự liên hệ của chúng với nhau. Đề tài rất là khó hiểu và hết sức rộng lớn, sâu xa, dầu vậy đây là một xác định ít được ghi lại trong các sách, nói giản dị thì nó như sau:
Những huyệt bên dưới  hoành cách mạc, tức huyệt huyệt đan điền, huyệt xương thiêng, huyệt cuối xương sống chịu sự kiểm soát của bốn chất ether địa cầu; những huyệt bên trên là huyệt tim, huyệt cổ họng, và huyệt đầu chịu sự kiểm soát của bốn chất ether vũ trụ, được gọi là năng lực cõi bồ đề, cõi của atma, cõi của Chân thần, và cõi cao nhất.
Lời xác định này trình bầy một liên hệ căn bản, biểu hiện ý ‘Trên sao, Dưới vậy’. Diễn giải thêm lời này thì trong diễn trình tiến hóa, ban đầu huyệt bên dưới hoành cách mạc chịu sự kiểm soát của ba chất ether địa cầu đếm từ dưới lên, là chất ether thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Khi người ta bắt đầu hướng thượng thì năng lực của cảnh ether cao nhất là cảnh thứ nhất có thể chi phối và kiểm soát.
Chừng ấy, các năng lực thuộc những cõi ether vũ trụ có thể tác động lên những huyệt bên trên hoành cách mạc, khơi dậy chúng, khiến chúng biểu lộ trọn vẹn; chuyện diễn ra trên con đường dự bị rồi con đường của người đệ tử. Sách vở nói về điều này bằng nhiều chữ khác nhau, tất cả nhằm diễn tả việc khi năng lực cao đi xuống thay thế năng lực thấp, khi ‘sức thu hút’ từ lực của năng lực tinh thần kéo năng lực thấp - liên quan tới phàm ngã - lên trên và nhập chúng vào mình.
Ta nên nhớ rằng bẩy huyệt chính trong thể sinh lực của con người luôn luôn có thành phần là các ether vật chất, nhưng khi người ta bước trên con đường của người đệ tử thì các huyệt này thành vận cụ cho những ether vũ trụ.
Sách vở ít nói đến sự liên hệ giữa bốn loại ether vật chất - physical or planetary - với bốn loại ether vũ trụ - cosmic, cũng như sự liên hệ giữa chúng với bốn lần chứng đạo, và bốn khía cạnh của Karma. Liên hệ này về sau sẽ là căn bản cho khoa học bí truyền mới, và do vậy ta cũng thấy là còn rất nhiều điều phải học hỏi và xem xét, tuy rằng các hiểu biết này không có ứng dụng mấy cho chúng ta hiện thời.
Đến cuối cuộc tiến hóa mỗi huyệt trong thể sinh lực là sự thể hiện sống động, linh hoạt và đẹp đẽ của cái năng lực căn bản hằng tìm cách dùng chúng; nhưng các năng lực này hướng về sự sống thiêng liêng mà không phải là vật chất, và chúng trong trẻo, tinh khiết và chói sáng. Tâm sáng ở giữa có sức chói lòa tới độ mắt thường khó thể thấy được. Tới đây ta nên nhớ là tuy có bẩy điểm sáng hay bẩy ‘ngọc - jewels’  và tới một lúc thể sinh lực dường như bị chìm khuất trong ánh sáng phát ra từ bẩy điểm này, mỗi huyệt khi ấy là sự biểu lộ thiêng liêng trọn vẹn, nhưng con người chỉ được thấy như là một tam giác lực với tâm sáng chói, vì khi ấy ba huyệt chính bên trên hoành cách mạc hoạt động mạnh mẽ và ánh sáng của chúng át sự chói sáng của những huyệt khác; cũng như là Chân thần chỉ biểu lộ qua ba đặc tính chính của thiên tính là:
Ý Chí hay Quyền Lực - cung Một
Minh Triết - Từ Ái - cung Hai
Trí Tuệ Tích Cực - cung Ba
tức ba cung chính.
Các huyệt liên quan chính yếu đến tâm thức và đây là điều cần nói thêm ở đây. Có rất nhiều sách nói về huyệt với đủ mọi chi tiết, điểm chú ý là không mấy ai có thể kiểm chứng được những điều ấy và thứ nữa, chúng liên hệ đến mặt kỹ thuật như số cánh hoa - tức các đường lực đi vào - của mỗi huyệt. Bài này được soạn với mục đích khác, không phải để có thêm các chi tiết không hữu dụng vào lúc này cho ta, mà cho ai muốn sống đời tinh thần. Vậy tất cả những gì có thể nói là với việc điểm ở giữa huyệt là tâm của sự sống, sức sống, thì năng lực - tức những cánh hoa của huyệt, là số đường lực đi vào huyệt - là chỉ dấu cho trạng thái tâm thức mà con người bên trong có thể biểu lộ, vào bất cứ điểm nào trong không gian và thời gian.
Đó có thể là trạng thái tâm thức của người còn bán khai, hay của người trung bình, hay của người tiến hóa cao. Những đường lực này luôn luôn có liên hệ đến Tâm Thức. Nói cách khác, điểm ở giữa huyệt liên quan tới đặc tính thứ nhất là sự sống; những cánh hoa của huyệt là về đặc tính thứ hai hay tâm thức.
Trạng thái tâm thức luôn luôn lộ ra bằng kích thước, mầu sắc và mức sinh hoạt của năng lực tạo nên cánh hoa của huyệt; sự khai mở của những cánh hoa này và sự phát triển của chúng bị các cung chi phối, cũng như là tuổi và kinh nghiệm dài, ngắn của linh hồn. Mức chói sáng và bản chất của sự sáng này cũng bị ảnh hưởng bởi mục đích của mỗi kiếp sống, cùng khuynh hướng của linh hồn đang tái sinh dưới trần. Ở đây là thí dụ rõ ràng cho ý ‘năng lực theo sau tư tưởng’.
Việc diễn ra như sau. Sự chú tâm tự nhiên nhiều lúc bị đảo ngược hẳn bởi cách suy nghĩ, tư tưởng của một người, hay do sự kiện là họ đang sống đời sống hằng ngày có ý thức hay không. Thí dụ là bình thường họ có thể trụ vào huyệt đan điền, nhưng do tư tưởng cố định và quyết tâm, năng lực mà người chí nguyện sử dụng có thể được hướng tới một trong các huyệt bên trên hoành cách mạc, sinh ra huyệt bên dưới hoành cách mạc tạm thời teo lại, và những gì nằm bên trên hoành cách mạc được kích thích. Theo cách ấy ta có được sự thay đổi cần thiết.
Ta cũng cần nhìn các huyệt theo một cách khác, ý hay thấy là nói về chúng như là biểu hiện cho sự khai mở tự nhiên của một người, nhưng thật ra điều ấy chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Trên thực tế, các huyệt là tụ điểm để qua đó năng lực có thể được phân phát dưới sự điều khiển khéo léo, để gây ra tác động cần có cho các huyệt khác hay ai khác mà người ta muốn giúp. Những tác động này có thể được kích thích hay sinh động khi cần, hay chúng có thể bị chủ ý hủy hoại, để giúp được giải thoát khỏi vật chất.
Đã tới lúc ai tìm hiểu nên chú trọng đến mặt phụng sự của các huyệt. Tài liệu hay ghi số cánh hoa của mỗi huyệt, điều có thể nói thêm về chi tiết này số cánh hoa chỉ số các năng lực của một huyệt mà người ta có thể sử dụng, là hai, mười hai, hay mười sáu năng lực v.v. Đây là điểm quan trọng, cho thấy sự ứng dụng thực tế của khoa huyền bí học mới trong Tân Kỷ nguyên.

● Vùng Tỏa Lực
Tức bán kính ảnh hưởng về mặt tâm linh của một người, là ảnh hưởng tỏa ra của làn rung động của một huyệt, khi chúng dần dần và chậm chạp linh hoạt. Các huyệt này, hay làn rung động của chúng, trên thực tế tạo ra điều ta gọi là hào quang, ngay cả khi hào quang này bị nhầm lẫn với hào quang sức khỏe.
Thể sinh lực cho biết và cho hào quang tính chất, mô tả tính chất của phàm ngã, tình cảm, trí tuệ và đôi khi cho thấy có sự làm chủ của linh hồn. Dầu vậy tầm quan trọng của nó hết sức hạn chế vì đúng ra trong thực tế, hào quang cho biết về các huyệt của một người. Nhìn vào hào quang người ta có thể biết được các điều sau:
a. Sự phát triển nằm bên trên hay dưới hoành cách mạc.
b. Các huyệt phát triển hay chưa.
c. Tính chất các cung có sáng rõ hay không.
d. Điểm sáng ở giữa tâm của huyệt và những cánh hoa sen có được kiểm soát, hay có đạt tới một sự quân bằng.
e. Con người hướng ngoại và do đó ở tình trạng sống động, hay hướng nội do trầm tư và vị kỷ, hay việc cái chết đang chậm chạp tới.
f. Phàm ngã hoặc linh hồn làm chủ, và vì thế đang có sự tranh chấp giữa hai điều này.
Như vậy ta có thể thấy hào quang tiết lộ rất nhiều chi tiết cho ai có khả năng đọc nó một cách chính xác, và do đó ta nên tạ ơn Trời là ít ai có khả năng ấy, hay khả năng này nằm trong tay vị Chân Sư hay bậc Đạo đồ là những người có bản chất là Từ Ái.
Vùng tỏa lực là dụng cụ mạnh mẽ để phụng sự, và người chí nguyện nên vun trồng mức tỏa rộng và sự thanh khiết của nó. Hai chi tiết trong Kinh Tân Ước là chỉ dạy huyền bí học đúng thực:
– Câu nói về thánh Peter rằng ‘Bóng của ông lướt qua chữa lành bệnh’. Nó muốn nói hào quang của ông có đặc tính tốt lành bất cứ ở đâu và khi nào nó chạm, hay tiếp xúc ai ở quanh ông.
– Đức Chúa kiểm soát hào quang của ngài chặt chẽ tới mức ‘Ngài biết khi nào lực tuôn ra khỏi người mình.’ Do đó ngài biết năng lực chữa lành đã tuôn qua một trong các huyệt của mình ra ngoài để tới ai cần.
Chính hào quang và sức hấp dẫn, ổn định của nó giữ cho một nhóm hợp lại với nhau, làm cho cử tọa lắng nghe, khiến một người thành quan trọng về mặt nào đó với kẻ chung quanh. Ai đi tìm vùng tỏa lực và ai quan sát ảnh hưởng của nó nơi người khác trong môi trường và cộng đồng, dễ dàng nhận ra nó. Một người thiên nặng về tình cảm, biểu lộ qua huyệt đan điền phát triển quá độ chưa được làm chủ, có thể làm tan nát cửa nhà hay một cơ quan.
Đây chỉ là một thí dụ. Thí dụ khác là một đời sống có tính sáng tạo, tỏa rực, hữu ý dùng huyệt cổ họng hay huyệt tim, có thể gây hứng khởi cho trăm người. Những điểm này đáng cho ta xem xét kỹ. Dầu vậy ta nên nhớ rằng huyệt thành linh hoạt bằng việc vun trồng các đức tính chính, mà không phải bằng việc tham thiền hay trụ tư tưởng vào đó. Chúng tự động thành sự tỏa lực cần thiết bằng cách sống đúng đắn, suy nghĩ cao thượng và hành động thương yêu.
Các đức tính này có vẻ chán ngắt và không thú vị đối với ta, nhưng chúng cho hiệu quả mạnh nhất và khoa học nhất để làm các huyệt có hoạt động tỏa lực muốn có. Khi làm được việc ấy, và khi tất cả các huyệt là những vùng hoạt động tỏa lực, tuôn ra ngoài, chúng thấm nhập vào quỹ đạo của những huyệt khác, làm cho vị đạo đồ trở thành một tâm ánh sáng sống động, mà không phải là một hợp lại của bẩy huyệt chói sáng.

● Tam Giác Lực
Tâm ánh sáng vừa nói ở trên thấy ở mọi người với mức sáng khác nhau, tỏa ra từ tam giác lực ở giữa con người nhìn ở cõi cao. Nó cho vị Chân sư biết các cung quản trị Chân thần, Chân nhân và phàm ngã của đương sự. Khi bậc Chân Sư nhìn vào ngài sẽ thấy rõ là cung nào trội nhất, mà ai dưới bậc này không nhận ra được.
Nói chung các chi tiết về cung này khác với những gì hay thấy trong sách khác mà khi hiểu rõ, sẽ cho ai học hỏi áp dụng thực tiễn về thái độ của mình về các huyệt, và có nỗ lực để làm cho vùng tỏa lực của mình gây ảnh hưởng hữu ích hơn cho người chung quanh. Lý do cho điều này là thái độ của họ sẽ thể hiện tính chất của tinh thần mà không phải là của vật chất, là điều lan tràn từ bao lâu nay.
Ta chớ quên rằng thể sinh lực là thể vật chất, là một phần nội tại của cõi trần, và phận sự của nó là như sau:
– Trước hết, thể là nhằm để truyền đi năng lực tình cảm và trí tuệ trong giai đoạn phát triển vô ý thức của việc tái sinh.
– Kế tiếp, nó cũng được ấn định để truyền xuống ba luồng năng lực của tinh thần của Chân nhân trong giai đoạn hữu thức thu thập kinh nghiệm ở cõi trần,
– Sau này, khi con người hướng lên cao nhiều hơn, thể được dùng để mang đi năng lực của Chân thần trong giai đoạn hữu thức phát triển thiên tính.
Ta thấy diễn biến này là sự đẹp đẽ của của tiến trình tinh thần, sự trợ giúp được sắp xếp cho con người trong mọi giai đoạn trên đường trở về tâm mà tất cả đã từ đó khởi đi.

F. Không Gian và Thể Sinh Lực

Trọn vũ trụ là chất ether, có bản chất là sức sống, mênh mông vượt khỏi con số của thiên văn học, khỏi tầm của trí tuệ cao tột nhất. Kích thước của nó không thể tính được, ngay cả khi dùng năm ánh sáng, vùng ether vũ trụ là sân trường của năng lực chưa được nói tới, và là căn bản cho tất cả những tính toán của chiêm tinh học. Nó là sân chơi cho các chu kỳ lịch sử về cả các mặt vũ trụ, thái dương hệ, và hành tinh; và liên hệ với các chòm sao, với các mặt trời, với các vì sao xa nhất và với rất nhiều các vũ trụ được biết, cũng như là với chính thái dương hệ của ta, với nhiều hành tinh, và với địa cầu là hành tinh mà ta đang sống, và với cả hình thể nhỏ nhất của sự sống mà ta gọi là hạt nguyên tử.
Tất cả được thấy là hiện hữu trong Không Gian, và Không Gian là chất ether nên khoa học huyền bí nói rằng Không Gian là một Thực Thể. Sự vinh quang của con người nằm ở sự kiện là ta có ý thức về không gian, và có thể tưởng tượng không gian này là sân trường cho sinh hoạt thiêng liêng, đông đầy những hình thể linh động thông minh,  mỗi cái nằm trong thể sinh lực của Thực Thể chưa biết này, mỗi thể có liên hệ nhau qua cái sức chẳng những giữ cho chúng thể hiện, mà còn duy trì vị trí của chúng so với nhau. Tuy thế mỗi một hình thể phân biệt này có sự sống riêng biệt của mình, tính chất độc đáo hay mầu sắc riêng, và dạng tâm thức riêng.
Thể ether này - mênh mang và chưa được biết về giới hạn của nó - dầu vậy có tính chất giới hạn và tương đối mà nói có sức chứa ổn định; nó duy trì một hình thể đã định, một hình thể mà ta không biết gì hết về nó, nhưng nó là hình thể của Thực Thể chưa biết. Khoa học huyền bí cho hình thể này cái tên là Không Gian; nó là vùng cố định mà trong đó mọi hình thể, từ một vũ trụ tới một hạt nguyên tử, tìm thấy chỗ của mình.
Người ta nói tới một vũ trụ mở rộng, điều ta thực sự muốn nói là một tâm thức mở rộng, vì thể ether của Thực Thể mà ta gọi là Không Gian, là nơi nhận nhiều loại năng lực đi vào và xuyên thấu, và nó cũng là sân trường của sinh hoạt thông minh của những sự sống - vũ trụ, của nhiều chòm sao, của những vì sao ở xa, của thái dương hệ của ta, của các hành tinh - thể, và tất cả những gì tạo nên tổng số các hình thể sống động phân cách với nhau.
Yếu tố kết hợp chúng là tâm thức và không là gì khác, và sân trường cho sự thức tỉnh của tâm thức, có được do sự tương tác của tất cả những hình thể sống động thông minh, bên trong vùng là thể sinh lực của Sự Sống vĩ đại mà ta gọi là Không Gian. Mỗi hình thể bên trong ether là như một tâm trong một hành tinh hay trong thể xác con người, và sự tương tự này đúng và nhận ra được.
Mỗi hình thể (vì nó họp thành một vùng tổng hợp gồm các sự sống vật chất hay hạt nguyên tử) là một tâm bên trong thể sinh lực của hình thể khác mà nó là một thành phần. Chuyện muốn nói ta có hình thể bên trong hình thể khác, nên ta ngừng một chút ở đây để nói thêm về ý này. Trong thực tế, ý được thấy qua các hình ảnh và sự kiện sau:
– Ta đang ngồi trong phòng, tức một hình thể ở trong một hình thể khác.
– Gian phòng nằm trong căn apartment, cũng tương tự như trên là thể này bên trong thể kia.
– Rồi căn apartment nằm trong một cao ốc, hay nằm cạnh một căn nhà khác, và cùng nhau họp thành một hình thể khác to lớn hơn.
Thế nhưng tất cả những hình thể khác biệt này đều gồm chất liệu hữu hình - mà khi được ý nghĩ trong trí não của người biết suy nghĩ, hay sắp xếp theo một kiểu mẫu đã biết được - tạo nên một hình dạng vật chất.
Trở lại đề tài, mỗi hình thể (vì nó là một vùng tổng hợp các sự sống vật chất hay hạt nguyên tử) là một tâm bên trong thể sinh lực của hình dạng mà nó là một phần. Căn bản cho sự hiện hữu của nó là một điểm sinh động họp thành trong hình dạng và duy trì nó được thể hiện. Hình thể hay cái tâm này - lớn hay nhỏ, là một con người hay hạt nguyên tử của chất liệu - liên hệ với tất cả những dạng khác và thể hiện các năng lực trong môi trường chung quanh; nó truyền đi các năng lực và tự động tiếp nhận chúng, và chặn lại năng lực khác vì không nhận biết. Nó tiếp vận và truyền đi các năng lực khác tỏa ra từ những dạng khác, thế nên tới phiên nó là một tác nhân gây ấn tượng.
Mỗi điểm của sự sống bên trong một tâm có vùng tỏa lực riêng, tức vùng ảnh hưởng tỏa ra của nó: vùng này nhất thiết phải tùy thuộc vào loại và tính chất của tâm thức sống bên trong. Chính sự thu hút tương tác giữa biết bao tâm của năng lực trong không gian, là căn bản cho tất cả các liên hệ về thiên văn học - giữa các vũ trụ, thái dương hệ và các hành tinh.
Dầu vậy, ta nên nhớ kỹ rằng Tâm Thức mới là phần làm cho hình thể có sức thu hút, cảm thụ, đẩy lui và truyền đi; cái tâm thức này khác nhau tùy theo bản chất của thực thể làm việc qua một tâm, dù lớn hay nhỏ. Điều khác nữa cũng nên nhớ là sự sống tuôn vào tất cả những huyệt và làm linh hoạt trọn không gian là sự sống của một Thực Thể. Vì vậy, nó là cùng sự sống trong tất cả mọi hình thể, bị giới hạn trong không gian và thời gian do dụng ý, ước muốn, hình thể và phẩm chất của tâm thức ngụ bên trong; có rất nhiều loại tâm thức khác nhau, nhưng sự sống luôn chỉ là một và bất khả phân chia, vì nó là Sự Sống Duy Nhất.
Vùng tỏa lực luôn luôn chịu ảnh hưởng của mức tiến hóa của sự sống bên trong hình thể; yếu tố kết nối, hòa hợp, liên hệ là chính sự sống; sự sống mang lại việc tiếp xúc, tính sống động là căn bản của mọi mối liên hệ, ngay cả khi điều ấy không lập tức hiện rõ đối với ta; tâm thức cho ra tính chất của sự tiếp xúc và nhuộm mầu lực tỏa ra. (còn tiếp)
Theo:
Telepathy – A.A.Bailey

Các Bài Liên Quan:

Geese